Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

Định nghĩa cơ sở thường trú

Định nghĩa cơ sở thường trú dưới đây được trích từ Thông tư 205/2013/TT-BTC. Thông tư này hướng dẫn các nội dung cơ bản của những Hiệp định giảm thiểu đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các dòng thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với những nước và vùng lãnh thổ (dưới đây gọi chung là Nước ký kết hoặc nước tùy theo ngữ cảnh) sở hữu hiệu lực thi hành tại Việt Nam (dưới đây gọi tắt là Hiệp định).
Dịch vụ làm báo cáo thuế
1. Theo quy định tại Hiệp định, “cơ sở thường trú” là 1 cơ sở kinh doanh cố định của một công ty, thông qua đấy, công ty thực hiện mọi hay 1 phần hoạt động kinh doanh của mình.
1 công ty của Nước ký kết được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam nếu hội đủ ba điều kiện dưới đây:
a) Duy trì tại Việt Nam 1 “cơ sở” như 1 tòa nhà, 1 văn phòng hoặc một phần của tòa nhà hay văn phòng ấy, 1 phương tiện hoặc trang bị,…; và
b) Cơ sở này với tính chất cố định, nghĩa là được thiết lập tại 1 địa điểm xác định và/hoặc được duy trì thường xuyên. Tính cố định của cơ sở marketing không nhất thiết phụ thuộc vào việc cơ sở đó phải được gắn ngay lập tức mang 1 vị trí địa lý cụ thể trong 1 độ dài thời gian nhất định; và
c) doanh nghiệp tiến hành tất cả hoặc 1 phần hoạt động buôn bán thông qua cơ sở này.
Ví dụ 8: doanh nghiệp X của Trung Quốc mở một gian hàng tại 1 khu chợ tết của Việt Nam, thông qua gian hàng này doanh nghiệp X bán các hàng hóa tại hội chợ. khi đấy, gian hàng này sẽ được coi là cơ sở thường trú của công ty X tại Việt Nam.
2. một doanh nghiệp của một Nước ký kết sẽ được coi là tiến hành hoạt động marketing thông qua một cơ sở thường trú tại Việt Nam trong những nếu chủ yếu sau đây:
a) công ty đó với tại Việt Nam: trụ sở điều hành, chi nhánh (như chi nhánh doanh nghiệp luật, chi nhánh văn phòng nước ko kể, chi nhánh các doanh nghiệp thuốc lá, chi nhánh ngân hàng,…), văn phòng (kể cả văn phòng đại diện thương mại trường hợp với thương lượng, ký hài hòa đồng thương mại), nhà máy, xưởng cung cấp, mỏ, giếng dầu hoặc khí, kho giao nhận hàng hoá, địa điểm điều tra hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên, hoặc có các thứ, phương tiện phục vụ cho việc thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam.
Ví dụ 9: một nhà thầu phụ nước bên cạnh dùng phương tiện, đồ vật và nhân công tham gia vào hoạt động khoan thăm dò dầu khí tại Việt Nam sẽ được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh thông qua 1 cơ sở thường trú tại Việt Nam.
b) doanh nghiệp đấy với tại Việt Nam 1 địa điểm thiết kế, 1 công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp, hoặc tiến hành những hoạt động giám sát liên quan đến các địa điểm thiết kế, công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp nói trên mang điều kiện những địa điểm, công trình hoặc những hoạt động giám sát ấy kéo dài hơn 6 tháng hoặc 3 tháng (tùy theo từng Hiệp định cụ thể) tại Việt Nam.
Địa điểm, công trình xây dựng hoặc lắp đặt bao gồm địa điểm, công trình xây dựng nhà cửa, đường xá, cầu cống, lắp đặt đường ống, khai quật, nạo vét sông ngòi,… Thời gian (6 tháng hoặc 3 tháng) được tính từ ngày nhà thầu bắt đầu công việc chuẩn bị cho công trình xây dựng tại Việt Nam, như thành lập văn phòng làm kế hoạch thi công, cho tới khi công trình hoàn thiện, bàn giao mọi tại Việt Nam, kể cả thời gian công trình bị gián đoạn do toàn bộ nguyên nhân.
những nhà thầu phụ của Nước ký kết tham gia vào các công trình thiết kế, lắp đặt hoặc lắp ráp nêu trên cũng được coi là tiến hành hoạt động buôn bán tại Việt Nam thông qua cơ sở thường trú trường hợp hội đủ những điều kiện tại Điểm 1.2.1 nêu trên.
Thời gian thực hiện công trình để xác định cơ sở thường trú cho nhà thầu chính bao gồm tổng cùng thời gian thực hiện các phần hợp đồng của các nhà thầu phụ và thời gian thực hiện của nhà thầu chính.
Ví dụ 10: công ty Z của Nhật Bản trúng thầu làm một chiếc cầu tại Việt Nam. Hoạt động thi công cầu diễn ra như sau: 5 tháng thi công làm trụ cầu do một nhà thầu phụ Y cũng là 1 doanh nghiệp Nhật Bản đảm nhiệm và 3 tháng thi công sàn cầu và hoàn thiện do nhà thầu Z tự thực hiện. Trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 5, Khoản 3, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản, doanh nghiệp Z được coi là tiến hành hoạt động buôn bán tại Việt Nam thông qua 1 cơ sở thường trú vì tổng thời gian thi công cầu là 8 tháng (5 tháng + 3 tháng); doanh nghiệp Y ko được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
c) công ty đấy thực hiện việc sản xuất dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tư vấn ở Việt Nam thông qua nhân viên của công ty hoặc 1 đối tượng khác sở hữu điều kiện các hoạt động dịch vụ nói trên trong một dự án hoặc những dự án sở hữu liên quan, kéo dài tại Việt Nam trong một khoảng thời gian hay phổ biến khoảng thời gian gộp lại quá 183 ngày trong mỗi công đoạn 12 tháng.
Ví dụ 11: Hãng sản xuất máy bay Đ của Thuỵ Điển ký hợp đồng dịch vụ bảo dưỡng máy bay có hãng Hàng không Việt Nam. Theo hợp đồng, trong giai đoạn từ ngày 01/6/2010 đến ngày 30/5/2011, hãng Đ đã cử các đoàn chuyên gia công nghệ sang Việt Nam làm việc với tổng số thời gian với mặt tại Việt Nam 190 ngày. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 4, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Điển, hãng Đ được coi là mang cơ sở thường trú tại Việt Nam do những đoàn chuyên gia khoa học đã khiến cho việc tại Việt Nam vượt quá 6 tháng trong quá trình 12 tháng.
Ví dụ 12: công ty tư vấn N của Nhật Bản ký các hợp đồng dịch vụ tư vấn mang chủ đầu tư của Dự án làm Nhà máy điện V tại Việt Nam như sau: i) hợp đồng dịch vụ tư vấn xây dựng nhà máy điện kéo dài 4 tháng từ ngày 01/8/2010 đến ngày 30/11/2010, và ii) hợp đồng dịch vụ tư vấn lắp đặt hệ thống máy phát điện kéo dài 3 tháng từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/3/2011. Cả hai hợp đồng đều yêu cầu sự hiện diện của đại diện doanh nghiệp tư vấn N tại hiện trường thiết kế và lắp đặt Nhà máy điện V để triển khai công việc trong suốt thời hạn hợp đồng. Để thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn lắp đặt nhà máy điện, doanh nghiệp tư vấn N đã thuê 1 doanh nghiệp tư vấn B của Nhật Bản thực hiện mang tư bí quyết đại diện cho doanh nghiệp. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 4, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản, công ty tư vấn N được coi là mang cơ sở thường trú tại Việt Nam do sự hiện diện của đại diện doanh nghiệp tại Dự án tại Việt Nam vượt quá 6 tháng trong giai đoạn 12 tháng; công ty tư vấn B không được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do sự hiện diện của công ty tại Việt Nam không quá 6 tháng.
Ví dụ 13: với các nhái định như Ví dụ 12, giả dụ công ty tư vấn B và chủ đầu tư của Dự án còn ký một hiệp định tư vấn trong giai đoạn chạy thử từ ngày 01/4/2011 đến ngày 30/7/2011. Hợp đồng cũng yêu cầu đại diện của công ty tư vấn B hiện diện trong suốt thời hạn hợp đồng tại hiện trường chạy thử Nhà máy điện V. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 4, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản, doanh nghiệp tư vấn B được coi là mang cơ sở thường trú tại Việt Nam do sự hiện diện của đại diện doanh nghiệp tại Dự án tại Việt Nam vượt quá 6 tháng trong giai đoạn 12 tháng.
Liên quan đến việc cung cấp dịch vụ, mặc dù tại Hiệp định có quy định cơ sở thường trú bao gồm việc cung cấp dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tư vấn ở Việt Nam thông qua nhân viên của công ty hoặc 1 đối tượng khác có điều kiện các hoạt động dịch vụ đề cập trên trong một dự án hoặc những dự án có liên quan, kéo dài tại Việt Nam trong một khoảng thời gian hay đa dạng khoảng thời gian gộp lại quá 183 ngày trong mỗi quá trình 12 tháng, nhưng do tính chất của dịch vụ, thời gian cung ứng dịch vụ ko kéo dài quá 6 tháng trong 1 quá trình 12 tháng, trong lúc ấy, ba điều kiện về cơ sở thường trú tại Điểm một.2.1 nêu trên vẫn thỏa mãn thì việc chế tạo dịch vụ vẫn được coi là sở hữu một cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Ví dụ 14: Hãng cung cấp máy bay Đ của Thuỵ Điển ký hợp đồng dịch vụ bảo dưỡng định kỳ máy bay mang hãng Hàng không Việt Nam trong thời gian hai năm. Theo hợp đồng, hàng năm, Hãng Đ đều cử những đoàn chuyên gia khoa học sang Việt Nam khiến việc với tổng số thời gian có mặt tại Việt Nam 90 ngày tại địa điểm bảo dưỡng máy bay. Trong giả dụ này, theo quy định tại Khoản 1, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Điển, hãng Đ được coi là với cơ sở thường trú tại Việt Nam do định kỳ hàng năm những đoàn chuyên gia kỹ thuật đã khiến việc tại Việt Nam tại 1 địa điểm cố định tại Việt Nam (các máy bay được bảo dưỡng).
d) doanh nghiệp đấy với tại Việt Nam 1 đại lý môi giới, đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ 1 đại lý nào khác, trường hợp các đại lý đó dành tất cả hoặc hầu hết hoạt động của mình cho công ty ấy (đại lý phụ thuộc).
Ví dụ 15: doanh nghiệp V là đối tượng cư trú của Việt Nam ký hợp đồng đại lý có chức năng lưu kho và giao sản phẩm sơn cho 1 công ty H là đối tượng cư trú của Anh. Theo quy định tại hợp đồng, công ty V không được phép làm cho đại lý cho bất cứ một nhà cung cấp hoặc chế tạo sơn nào khác. trường hợp này, mặc dù không sở hữu chức năng ký hài hòa đồng hoặc thu tiền tại Việt Nam nhưng công ty V đã trở thành đại lý phụ thuộc của doanh nghiệp H, ko còn là đại lý độc lập nữa. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Anh (Khoản 6, Điều 5: Cơ sở thường trú) doanh nghiệp H được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
đ) doanh nghiệp đấy uỷ quyền cho 1 đối tượng tại Việt Nam:
– Thẩm quyền thường xuyên thương lượng, ký kết hợp đồng đứng tên công ty đó; hoặc ký những hợp đồng sở hữu tên đối tượng đó nhưng ràng buộc nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của công ty đó; hoặc
– không với thẩm quyền thương lượng, ký hài hòa đồng, nhưng mang quyền thường xuyên đại diện cho doanh nghiệp đấy giao hàng hóa tại Việt Nam.
3. một công ty nước bên cạnh sẽ được coi là không với cơ sở thường trú tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây:
a) công ty đấy sử dụng các phương tiện chỉ nhằm mục đích lưu kho, trưng bày hàng hóa của công ty.
b) doanh nghiệp đấy có tại Việt Nam một kho hàng hóa chỉ nhằm mục đích lưu kho, trưng bày hoặc để cho 1 doanh nghiệp khác gia công.
c) doanh nghiệp đấy mang tại Việt Nam một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm mục đích sắm hàng hóa hoặc thu thập thông tin cho doanh nghiệp.
d) doanh nghiệp đó có tại Việt Nam 1 cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm mục đích tiến hành các hoạt động chuẩn bị hoặc phụ trợ cho công ty.
4. nếu một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam, hoặc đang tiến hành hoạt động buôn bán tại Việt Nam (có thể thông qua cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ doanh nghiệp nào vươn lên là cơ sở thường trú của công ty kia.
Ví dụ 16: 1 doanh nghiệp nước ngoại trừ góp vốn có mặt trên thị trường một công ty liên doanh hoặc một công ty 100% vốn nước không tính tại Việt Nam. lúc đó, công ty liên doanh hoặc công ty 100% vốn nước bên cạnh này ko được coi là các cơ sở thường trú tại Việt Nam của công ty nước bên cạnh đấy.
Tuy nhiên, trường hợp công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định có Việt Nam góp vốn thành lập 1 doanh nghiệp liên doanh hoặc 1 công ty 100% vốn nước ko kể tại Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp chế xuất) thì doanh nghiệp ấy sẽ được coi như sở hữu một cơ sở thường trú tại Việt Nam nếu:
– doanh nghiệp liên doanh hoặc công ty 100% vốn nước bên cạnh thường xuyên thương lượng, ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp đó; hoặc ký những hợp đồng đứng tên công ty liên doanh hoặc công ty 100% vốn nước ko kể nhưng ràng buộc nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của công ty nước ngoài; hoặc
– doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước bên cạnh thường xuyên đại diện cho công ty nước ngoài giao hàng hóa tại Việt Nam; hoặc
Làm báo cáo tài chính
– doanh nghiệp nước không tính đó với quyền định đoạt đối mang cơ sở vật chất – công nghệ của công ty liên doanh hoặc công ty 100% vốn nước ngoại trừ đó trong công đoạn sản xuất buôn bán (nghĩa là, việc công ty nước ngoại trừ sử dụng những cơ sở vật chất – kỹ thuật của công ty liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam (nếu có) trong quá trình phân phối marketing chẳng phải trên cơ sở nguyên tắc giá thị trường).

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More